Vàng da sơ sinh là gì? Các công bố khoa học về Vàng da sơ sinh

Vàng da sơ sinh là một tình trạng phổ biến ở trẻ sơ sinh khi da của trẻ có màu vàng nhạt hoặc vàng cam như một lớp sơn phủ. Đây là kết quả của sự tích tụ biliru...

Vàng da sơ sinh là một tình trạng phổ biến ở trẻ sơ sinh khi da của trẻ có màu vàng nhạt hoặc vàng cam như một lớp sơn phủ. Đây là kết quả của sự tích tụ bilirubin, một chất tồn tại trong máu và được sản xuất khi cơ thể phá hủy các tế bào máu cũ. Vàng da sơ sinh thường xuất hiện trong vài ngày sau khi trẻ ra đời và thường tự giảm đi sau khoảng 1-2 tuần. Đây là một tình trạng thường không nguy hiểm và hầu hết các trường hợp không đòi hỏi đến sự can thiệp y tế. Tuy nhiên, nếu vàng da sơ sinh kéo dài hoặc có những dấu hiệu bất thường khác, bạn nên liên hệ với bác sỹ để được tư vấn và kiểm tra lại sức khỏe của trẻ.
Vàng da sơ sinh (jaundice) là một hiện tượng mà da của trẻ sơ sinh có màu vàng nhạt hoặc vàng cam. Đây là do sự tích tụ của bilirubin trong máu và da. Bilirubin là một chất phân tử có màu vàng được tạo ra khi cơ thể phá hủy các tế bào máu cũ, đặc biệt là các hồng cầu.

Khi trẻ sơ sinh mới ra đời, hệ thống gan và các cơ quan khác vẫn đang phát triển và chưa thể hoạt động một cách hiệu quả như người lớn. Do đó, gan của trẻ sơ sinh không thể xử lý bilirubin một cách hiệu quả và làm giảm nhanh chóng nồng độ của chất này trong máu. Nồng độ bilirubin tăng lên trong máu của trẻ sơ sinh, khiến da trở nên vàng.

Vàng da sơ sinh thường xuất hiện trên mặt và sau đó lan rộng xuống cả cơ thể của trẻ. Màu vàng có thể được nhận thấy ngay sau vài ngày sau khi trẻ ra đời và đạt đến đỉnh điểm khoảng từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5. Sau khi đạt đến đỉnh, nồng độ bilirubin sẽ giảm và vàng da cũng sẽ mờ dần đi. Thường chỉ sau khoảng 1-2 tuần, vàng da sơ sinh hoàn toàn biến mất.

Vàng da sơ sinh thường không gây ra rối loạn sức khỏe nghiêm trọng cho trẻ, tuy nhiên, nếu nồng độ bilirubin quá cao có thể gây ra tình trạng gọi là kernicterus, là một tình trạng hiếm nhưng nguy hiểm trong đó bilirubin tạo thành trong cơ thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương của trẻ. Do đó, quan trọng là chăm sóc và theo dõi sát sao trẻ trong giai đoạn này.

Nếu vàng da sơ sinh không giảm đi sau 2 tuần hoặc có những dấu hiệu bất thường như vàng mắt, cơn co giật, chảy máu nhiều, khó thức dậy hoặc gầy mòn, bạn nên liên hệ với bác sĩ để được tư vấn và kiểm tra thêm. Bác sĩ có thể yêu cầu kiểm tra nồng độ bilirubin trong máu và đưa ra điều trị phù hợp nếu cần thiết.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vàng da sơ sinh":

Quản lý tăng bilirubin máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng (35 tuần tuổi thai trở lên) Dịch bởi AI
American Academy of Pediatrics (AAP) - Tập 114 Số 1 - Trang 297-316 - 2004

Vàng da xảy ra ở hầu hết trẻ sơ sinh. Mặc dù hầu hết các trường hợp vàng da là lành tính, nhưng do khả năng gây độc của bilirubin, nên các trẻ sơ sinh cần được theo dõi để xác định những trẻ có nguy cơ phát triển tăng bilirubin máu nặng và, trong trường hợp hiếm hoi, xuất hiện bệnh não do bilirubin cấp tính hoặc kernicterus. Mục tiêu của hướng dẫn này là giảm tỉ lệ tăng bilirubin máu nặng và bệnh não do bilirubin đồng thời giảm thiểu các rủi ro không mong muốn như lo lắng của người mẹ, giảm việc cho con bú và các chi phí hoặc điều trị không cần thiết. Mặc dù gần như luôn có thể phòng ngừa kernicterus, các trường hợp vẫn tiếp tục xuất hiện. Những hướng dẫn này đưa ra khung chuẩn để phòng ngừa và quản lý tăng bilirubin máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng (35 tuần tuổi thai trở lên). Trong mọi trường hợp, chúng tôi khuyến nghị rằng các nhà lâm sàng: 1) khuyến khích và hỗ trợ việc cho con bú hiệu quả; 2) thực hiện đánh giá hệ thống trước khi xuất viện để xác định nguy cơ tăng bilirubin máu nặng; 3) cung cấp theo dõi sớm và chuyên sâu dựa trên đánh giá nguy cơ; và 4) khi cần thiết, điều trị trẻ sơ sinh bằng quang trị liệu hoặc trao đổi máu để ngăn ngừa phát triển tăng bilirubin máu nặng và, có thể, bệnh não do bilirubin (kernicterus).

#tăng bilirubin máu #trẻ sơ sinh #vàng da #quang trị liệu #kernicterus #bệnh não do bilirubin #tuần tuổi thai #phòng ngừa #quản lý #đánh giá nguy cơ
Ngăn ngừa vàng da sơ sinh bằng din Protoporphyrin IX, một chất ức chế cạnh tranh mạnh quá trình oxy hóa heme. Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 78 Số 10 - Trang 6466-6470 - 1981

Hiệu quả của các metalloporphyrin khác nhau lên hoạt động của enzyme heme oxygenase (EC 1.14.99.3) ở gan đã được kiểm tra nhằm xác định các hợp chất có khả năng ức chế sự thoái biến heme thành sắc tố mật, từ đó có thể được sử dụng để hạn chế sự phát triển của bệnh tăng bilirubin huyết ở trẻ sơ sinh. Trong số chín phức chất metal-protoporphyrin IX (tức là, metal-heme) được nghiên cứu, Sn-heme, Mn-heme, và Zn-heme làm giảm đáng kể hoạt động của heme oxygenase trong thí nghiệm trên chuột. Các metalloporphyrin này hoạt động như những cơ chất cạnh tranh ức chế trong phản ứng của heme oxygenase nhưng tự chúng không bị phân hủy oxi hóa. Sn-heme là chất ức chế enzyme mạnh nhất (Ki = 0.011 microM) ở gan, lách, thận và da. Khi Sn-heme được tiêm vào động vật sơ sinh trong vòng 72 giờ sau sinh, nó ngăn chặn sự gia tăng hoạt động của heme oxygenase sau sinh ở nhiều mô khác nhau. Tác động của nó trên mức enzyme rất nhanh và kéo dài. Việc tiêm Sn-heme cũng hoàn toàn ngăn ngừa sự phát triển của bệnh tăng bilirubin huyết sau sinh. Hiệu quả của metalloporphyrin này trong việc hạ mức bilirubin huyết thanh tăng cao ở trẻ sơ sinh diễn ra nhanh chóng (trong vòng 1 ngày) và duy trì suốt 42 ngày sau sinh. Không thấy có tác dụng phụ nào khi điều trị bằng Sn-heme ở trẻ sơ sinh. Điều này cho thấy một metalloporphyrin tổng hợp là chất ức chế cạnh tranh mạnh quá trình oxy hóa heme có thể khi được tiêm vào trẻ sơ sinh, cũng có thể ngăn ngừa bệnh vàng da tăng bilirubin huyết sau sinh. Ý nghĩa lâm sàng tiềm năng của những phát hiện này rất rõ ràng, và đề xuất rằng các tính chất dược lý của Sn-heme và các metalloporphyrin tổng hợp liên quan xứng đáng được nghiên cứu thêm.

#Metalloporphyrin #heme oxygenase #hyperbilirubinemia #neonatology #enzyme inhibition.
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỪ MẸ VÀ CON ĐẾN VÀNG DA TĂNG BILIRUBIN GIÁN TIẾP Ở TRẺ SƠ SINH TẠI ĐƠN VỊ NHI SƠ SINH BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng vàng da tăng bilirubin gián tiếp (VDTBGT) ở trẻ sơ sinh. Và tìm hiểu một số yếu tố liên quan từ mẹ và con đến VDTBGT ở trẻ sơ sinh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh-chứng (82 trẻ vàng da: 82 trẻ không vàng da) tại đơn vị Nhi sơ sinh, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ 5/2021 đến 30/6/2022. Kết quả: Tổng số 82 trẻ sơ sinh được chẩn đoán VDTBGT. Tỷ lệ nữ 57,3%, sơ sinh non tháng  (SSNT) 46,4%. Đa số trẻ có xuất hiện vàng da sớm trong 48 giờ đầu sau sinh (65,8%) trong đó phát hiện sớm trong 24 giờ đầu là 32,9%. Giờ tuổi trung bình trẻ được chẩn đoán là 41,5 (26-64) giờ, tỷ lệ trẻ biểu hiện vàng da đến vùng 5 là 46,3%, vàng da vùng 1,2 chiếm 20,7%. Các nguyên nhân vàng da nhiễm khuẩn sơ sinh sớm (NKSSS) 47,6%, SSNT 46,3%, vàng da bất đồng nhóm máu mẹ con ABO 12%, đa hồng cầu 12,2%. Nồng độ bilirubin toàn phần trung bình là 206,7 (81,8-383,1) (µmol/L). Tỷ lệ trẻ vàng da có thiếu máu (Hb <13,5g/l) là 13,4% và đa hồng cầu (>=220g/l) là 11%. Phân tích đơn biến cho thấy trường hợp sinh thường, mẹ nhóm máu O, SSNT, cân nặng dưới 2500 gam, NKSSS và ngạt tăng nguy cơ VDTBGT(p<0,05). Phân tích đa biến cho thấy trẻ SSNT, cân nặng thấp, mẹ nhóm máu O tăng nguy cơ VDTBGT(p<0,05). Kết luận: Vàng da tăng bilirubin gián tiếp cần được đánh giá sàng lọc sớm, đặc biệt trường hợp trẻ có mẹ nhóm máu O, non tháng, cân nặng thấp, NKSSS, ngạt.
#Vàng da tăng bilirubin gián tiếp #tan máu sơ sinh
Thay đổi thái độ của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định sau can thiệp giáo dục
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 2 Số 2 - Trang 38-43 - 2019
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi thái độ của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh sau giáo dục sức khỏe tại bệnh viện Phụ Sản tỉnh Nam Định. Đối tượng và phương pháp: Can thiệp một nhóm có so sánh trước sau trên 151 bà mẹ về thái độ chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh tại bệnh viện Phụ Sản tỉnh Nam Định từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2015. Kết quả: Thái độ chăm sóc của bà mẹ về vàng da sơ sinh trước giáo dục sức khoẻ còn thấp. Sau giáo dục sức khoẻ, thái độ của bà mẹ được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ bà mẹ có thái độ rất tích cực tăng từ 15,5% lên 45,9%, thái độ chưa tích cực giảm từ 20,3% xuống 4,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Kết luận: Thái độ rất tích cực của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh còn thấp. Sau giáo dục sức khoẻ, thái độ của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh được cải thiện rõ rệt.
#Vàng da sơ sinh #giáo dục sức khoẻ #thay đổi thái độ
SO SÁNH ĐỘ CHÍNH XÁC CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ HUYẾT THANH HỌC BẰNG PHƯƠNG PHÁP CẢM QUAN THỊ GIÁC QUA BẢNG MÀU VỚI PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TỰ ĐỘNG TRÊN MÁY SINH HÓA - MIỄN DỊCH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1 - 2023
Giới thiệu: Chỉ số huyết thanh học được đánh giá bằng cảm quan thị giác tuy đơn giản, ít tốn kém, sử dụng tại nhiều phòng xét nghiệm nhưng rất chủ quan và độ chính xác chưa được xác thực. Việc xác định độ chính xác của phương pháp đánh giá bằng mắt và bằng máy là cần thiết để quản lý chất lượng mẫu tiền phân tích. Mục tiêu: Xác định độ chính xác của việc đánh giá chỉ số tán huyết (H), chỉ số vàng huyết thanh do tăng bilirubin (I) và chỉ số đục huyết thanh do tăng lipid máu (L) ở các mức nồng độ, bằng phương pháp cảm quan thị giác qua bảng màu so với phương pháp phân tích tự động trên máy sinh hoá-miễn dịch Architect Ci8200 (Abbott). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 420 mẫu huyết thanh được thu thập từ 07/2020 đến 11/2020 tại khoa Xét Nghiệm, bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Mẫu được đánh giá ba chỉ số huyết thanh song song bằng hai phương pháp cảm quan thị giác và bằng máy. Các kết quả được ghi nhận độc lập. Độ chính xác của hai phương pháp được đánh giá bằng các chỉ số: độ chính xác, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương, giá trị dự báo âm. Kết quả: Trong 420 mẫu, có 121 mẫu không có chỉ số huyết thanh nào (28,8%), 260 mẫu có một chỉ số huyết thanh (61,9%) và 39 mẫu có nhiều hơn một chỉ số huyết thanh (9,3%). Đối với nhóm mẫu chỉ có một chỉ số huyết thanh: độ chính xác khi phân biệt giữa mức "có và không có" (0-1234) giữa phương pháp cảm quan thị giác và hệ thống máy cho chỉ số H, I và L lần lượt là 0,87; 0,72; 0,84. Đối với chỉ số H, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,86; 0,76; 0,59; 0,53. Đối với chỉ số I, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,72; 0,58; 0,50; 0,40. Đối với chỉ số L, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,84; 0,57; 0,33; 0,50. Đối với mẫu có hai chỉ số trở lên, do sự tương tác của các chỉ số trong cùng mẫu, không xác định được độ chính xác giữa hai phương pháp. Kết luận: So với phương pháp đánh giá tự động bằng máy phương pháp đánh giá các chỉ số huyết thanh học bằng cảm quan thị giác có độ chính xác tốt trong việc phân biệt mẫu có hoặc không có chỉ số huyết thanh. Ở các mức nồng độ khác nhau đối với cùng chỉ số huyết thanh, phương pháp cảm quan thị giác ít chính xác trong việc phân loại.
#chỉ số huyết thanh #chỉ số tán huyết #chỉ số vàng do tăng bilirubin #chỉ số đục do tăng lipid
Tình hình kết quả sinh non tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2020
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 3 - Trang 50-54 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nhận xét diễn biến tình trạng trẻ sơ sinh non tháng ở sản phụ sinh non tại Khoa Sản Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 123 sản phụ sinh non tại Khoa Sản Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2020. Kết quả và kết luận: Nhóm tuổi 20 - 35 chiếm tỉ lệ cao nhất 84,6%. Sản phụ sống ở nông thôn chiếm 55,3%. Tuổi thai 34 - < 37 tuần chiếm tỷ lệ cao nhất 62,2%. Có 19,5% trường hợp thiểu ối. Tỷ lệ sản phụ có thiếu máu chiếm 16,3%. Trong số 123 trẻ non tháng sinh ra có 56 trẻ nằm cùng mẹ, 67 trẻ chuyển khoa nhi điều trị, 6 trẻ tử vong sau sinh.Trẻ có trọng lượng sơ sinh từ 1500 - 2499gr chiếm tỷ lệ cao nhất 53,7%. Trong tổng số 67 trẻ chuyển nhi điều trị, suy hô hấp chiếm 35,8%, vàng da chiếm 9,0%. Trẻ mắc kết hợp từ hai bệnh trở lên chiếm tỷ lệ 55,2%
#sinh non #suy hô hấp #vàng da #sơ sinh non tháng
Thay đổi kiến thức về vàng da sơ sinh của thai phụ sau giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Sản nhi tỉnh Phú Yên năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 3 - Trang 50-57 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức của thai phụ về vàng da sơ sinh tại bệnh viện Sản Nhi tỉnh Phú Yên sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu can thiệp không đối chứng đánh giá trước sau. Đối tượng là 70 thai phụ mang thai ở tuần thứ 33- 35. Sử dụng phương pháp truyền thông trực tiếp có sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông. Đánh giá kiến thức của đối tượng tại 3 thời điểm trước, ngay sau và sau 1 tháng can thiệp. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về khái niệm, dấu hiệu nhận biết, nguyên nhân, hậu quả, cách xử trí đều tăng lên đáng kể ngay sau can thiệp và giảm xuống không đáng kể sau can thiệp 1 tháng. Tính chung, kiến thức đúng của đối tượng ngay sau can thiệp và sau 1 tháng cao hơn trước can thiệp khoảng 13 lần. Kết luận: Truyền thông giáo dục sức khỏe có vai trò quan trọng trong nâng cao kiến thức của thai phụ, cần tiếp tục nghiên cứu các hình thức truyền thông mới phù hợp cho đối tượng là thai phụ về vàng da sơ sinh.
#Kiến thức #vàng da sơ sinh #phụ nữ có thai
Đánh giá sự thay đổi kiến thức của bà mẹ về vàng da sơ sinh tại bệnh viện phụ sản tỉnh Nam Định
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 1 Số 1 - Trang 15-20 - 2018
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức của bà mẹ về vàng da sơ sinh sau giáo dục sức khỏe tại bệnh viện Phụ Sản tỉnh Nam Định. Phương pháp: Can thiệp một nhóm có so sánh trước sau trên 151 bà mẹ về vàng da sơ sinh tại bệnh viện Phụ Sản tỉnh Nam Định từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2015.Kết quả:Kiến thức của bà mẹ về vàng da sơ sinh trước giáo dục sức khoẻ còn thấp. Sau giáo dục sức khoẻ, kiến thức của bà mẹ được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức tốt tăng từ 4,6% lên 48,3%, kiến thức trung bình giảm từ 37,1% xuống 15,2%, kiến thức yếu giảm từ 30,5% xuống 6,6%. Kiến thức có sự thay đổi nhiều nhất là đáp ứng của bà mẹ về cách xử trí làm giảm vàng da cho trẻ (41,1% - 78,8%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Kết luận: Kiến thức của bà mẹ về vàng da sơ sinh còn thấp. Sau giáo dục sức khoẻ, kiến thức của bà mẹ được cải thiện rõ rệt.
#Vàng da sơ sinh #giáo dục sức khoẻ #thay đổi kiến thức
ĐIỀU TRỊ VÀNG DA SƠ SINH BẰNG ÁNH SÁNG XANH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG BIẾN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Mô tả kết quả điều trị vàng da sơ sinh bằng liệu pháp ánh sáng xanh và đánh giá hiệu quả của một số biện pháp phòng biến chứng trong quá trình điều trị tại BV trường ĐKYK Vinh và BV thành phố Vinh năm 2022. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. Kết quả: Nghiên cứu được thực hiện với sự tham gia của 149 trẻ sơ sinh được chiếu đèn vàng da và đánh giá kết quả chiếu đèn và hiệu quả của một số biện pháp phòng biến chứng trong quá trình điều trị tại BV Trường ĐHYK và BVĐK thành phố Vinh năm 2022. Kết quả: tỷ lệ vàng da tăng  Bilirubin gián tiếp ở trẻ sơ sinh nam/nữ là 1.26/1; 89.9% trẻ phát hiện vàng da tại nhà; Tỷ lệ bất đồng nhóm máu chung là 10.1%; Tỷ lệ chiếu đèn ở nhóm phát hiện sớm trong 48h đầu sau sinh là 26.2% trên tổng số trẻ phát hiện sớm là 51.6%; 7.4% trẻ có tác dụng phụ trong khi chiếu đèn gồm 2% da nổi mẩn đỏ, 5.4% mất nước; 98.0% trẻ sau chiếu đèn ổn định và ra viện; có 2.0% trẻ có biểu hiện các triệu chứng diễn biến đã dược hội chẩn và chuyển Bv Sản Nhi Nghệ An. Thời gian chiếu đèn TB của nhóm trẻ có bất đồng nhóm máu mẹ - con dài hơn so với nhóm không bất đồng nhóm máu; Trẻ uống sữa công thức có thời gian chiếu đèn trung bình dài hơn những trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn. Trẻ xuất hiện vàng da sớm thì thời gian chiếu đèn trung bình dài hơn so với thời điểm xuất hiện vàng da muộn. Kết luận: Vàng da sơ sinh do tăng bilirubin tự do liên quan tới đặc điểm chuyển hoá bilirubin trong cơ thể trẻ ở những ngày đầu sau sinh. Cùng với sự phát triển của chất lượng y tế, nhận thức của bà mẹ ngày một nâng cao, trẻ sau sinh được phát hiện và điều trị sớm, mức độ vàng da không quá cao và bilirubin gián tiếp tăng không quá nhanh nên hầu hết trẻ tiên lượng đều tốt và ra viện sau vài ngày điều trị bằng ánh sáng liệu pháp, trẻ phát triển hoàn toàn bình thường không để lại di chứng. Do đó cần nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành xử trí chăm sóc và phòng ngừa vàng da của các bà mẹ trong 48 giờ đầu sau khi sinh.
#Vàng da sơ sinh; Bilirubin gián tiếp.
Thay đổi kiến thức và thái độ về vàng da sơ sinh của các thai phụ sau giáo dục sức khỏe tại Khoa Phụ sản Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh năm 2021
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 4 Số 4 - Trang 24-33 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ về vàng da sơ sinh của các thai phụ sau giáo dục sức khỏe tại khoa Phụ Sản - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp trên một nhóm có so sánh trước sau với cỡ mẫu 102 thai phụ đang mang thai ở tuần thứ 35 thực hiện khám thai định kỳ và đăng ký sinh tại khoa Phụ sản - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. Sử dụng phương pháp truyền thông trực tiếp có sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông. Đánh giá kiến thức, thái độ của đối tượng tại 3 thời điểm trước, ngay sau và sau 1 tháng can thiệp thông qua bộ câu hỏi được thiết kế bởi nhóm nghiên cứu. Kết quả: Tỷ lệ kiến thức đạt về vàng da sơ sinh của các thai phụ tăng lên rõ rệt từ 14,7% trước can thiệp lên 79,4% sau can thiệp và 83,3% sau can thiệp một tháng (p<0,05). Điểm trung bình kiến thức chung tăng có ý nghĩa thống kê ngay sau can thiệp và sau can thiệp 1 tháng so với trước can thiệp (p<0,001). Tỷ lệ thai phụ có thái độ chung đúng tăng từ 66,7% trước can thiệp lên 92,2% sau can thiệp và duy trì ở 92,2% sau can thiệp một tháng (p<0,05). Điểm trung bình thái độ chung tăng có ý nghĩa thống kê, ngay sau can thiệp và duy trì ở mức khá cao sau can thiệp 1 tháng (p<0,001). Kết luận: Có sự cải thiện rõ ràng về mặt kiến thức cũng như thái độ của các thai phụ về vàng da sơ sinh sau khi áp dụng truyền thông giáo dục sức khỏe chứng minh sự hiệu quả của mô hình truyền thông giáo dục sức khỏe được áp dụng.
#Vàng da sơ sinh #kiến thức #thái độ #thai phụ #Quảng Ninh
Tổng số: 16   
  • 1
  • 2